Robot sẽ có thể dự đoán tương lai?

Robot sẽ có thể dự đoán tương lai?

Robot dự đoán tương lai chính là xu hướng của ngành trí tuệ nhân tạo trong năm nay. Một số nhà phát triển AI đầy tham vọng thậm chí đã chuyển sang tìm cảm hứng từ một công cụ dự đoán khác: bộ não con người.

Các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới đang rất nỗ lực trong việc phát triển một robot thực sự tự trị. Chắc chắn có rất nhiều robot có thể tự làm việc mà không cần đến sự can thiệp của con người, tuy nhiên, tất cả chúng đều chưa sẵn sàng để được sản xuất đại trà, làm việc không có sự giám sát hoặc được tự do di chuyển và đi đến những không gian công cộng như một con người.

Và nếu suy nghĩ kỹ, liệu bạn có dám tin tưởng một con robot không bất chợt đâm sầm vào bạn trong hành lang, hoặc lao qua cửa sổ và rơi xuống đè lên người đang đi ở dưới, đặc biệt trong một thế giới mà có đến 63% dân số sợ đi xe không người lái?

Cách chúng ta thu hẹp khoảng cách giữa những gì con người làm theo bản năng – như tránh đường khi đi ngược chiều với người lạ mà không cần tính toán, hoặc không nhảy ra ngoài cửa sổ như một phương pháp tránh va chạm – với những gì robot đang có khả năng làm, là tìm ra lý do tại sao chúng ta lại có khả năng suy nghĩ như vậy, và làm thế nào chúng ta có thể làm cho robot giống chúng ta hơn.

Một nhà khoa học đặc biệt tiến bộ trong lĩnh vực này là Alan Winfield, người đã làm việc để chế tạo robot thông minh hơn trong nhiều năm nay. Nỗ lực không ngừng nghỉ của ông trong lĩnh vực này đã cho thấy một số kết quả khá khả quan. Trong một bài báo được công bố chỉ vài tháng trước, ông nói rằng robot làm việc trong các dịch vụ khẩn cấp – ví dụ như robot cứu hộ trong y tế –  loại robot cần có khả năng di chuyển nhanh chóng qua đám đông, lại có thể là một nguy cơ thực sự đối với sự an toàn của bất kỳ người nào trong khu vực lân cận của chúng. Robot cứu hộ mà đâm vào người dân xung quanh thì còn có ích gì? Vì thế, thay vì dựa vào đèn nháy, còi báo động, cảnh báo bằng giọng nói và các phương pháp khác, trong đó con người trở thành “bên thông minh” nhận diện nguy hiểm, Winfield và các nhà khoa học như ông muốn robot mô phỏng trước mọi cử động, mọi tình huống có thể xảy ra trước khi hành động.

Công việc hiện tại của ông được giới thiệu trong một thí nghiệm có tên “thí nghiệm hành lang”, trong đó, một robot sử dụng mô hình mô phỏng bên trong nó để xác định xem con người sẽ làm gì tiếp theo khi đi qua một không gian khép kín – như một hành lang khách sạn. Mất nhiều thời gian hơn để robot đi qua hành lang trong khi chạy chương trình mô phỏng – chính xác là lâu hơn 50% – nhưng nó cũng cho thấy sự cải thiện đáng kể về độ chính xác của khả năng tránh va chạm so với các robot khác đang được phát triển.

Những nghiên cứu ban đầu trong lĩnh vực này cho rằng các mạng lưới thần kinh nhân tạo – GAN – sẽ cho robot khả năng dự đoán, và thực sự là chúng đã làm được, nhưng chưa đủ. Những AI chỉ biết đáp lại các hành động của một thực thể khác sẽ không bao giờ có thể làm bất cứ điều gì khác ngoài việc phản ứng. Và chắc chắn con người cũng không thể mong đợi máy móc nói “xin lỗi” sau khi chúng nghiền nát một ai đó.

Bộ não của chúng ta có chức năng tiên đoán trạng thái cảm xúc, động lực, và hành động tiếp theo của một con người, động vật, hoặc vật thể, được gọi là Theory of mind (lý thuyết tâm trí). Đây là lí giải cho việc bạn có thể dự đoán một chiếc xe sắp đâm vào một chiếc xe khác vài giây trước khi nó thực sự xảy ra. Điều này không có nghĩa tất cả chúng ta đều có sức mạnh tâm linh hoặc có khả năng của một thầy bói, đơn giản chỉ là chúng ta thực sự  thông minh hơn nhiều so với máy móc.

Trung bình một đứa trẻ bốn tuổi cũng có khả năng mô phỏng sự việc và có thể làm cho những hệ thống AI tốt nhất của Google hoặc Nvidia trông giống như nó được phát triển trên bàn tính bị hỏng. Nghiêm túc mà nói, trẻ em thông minh hơn robot, máy tính, hoặc bất kỳ mạng lưới thần kinh nhân tạo nào đang tồn tại. Đó là bởi vì trí não chúng ta được thiết kế để tránh những thứ như đau đớn và chết chóc. Trong khi đó, robot không quan tâm nếu chúng ngã vào một hồ nước, bị đánh đập, hoặc làm tổn thương chính mình nếu rơi xuống từ trên cao. Và nếu không ai dạy chúng đừng làm thế, chúng sẽ lặp đi lặp lại cùng những sai lầm đó cho đến khi chúng không thể hoạt động nữa.

Ngay cả các AI tiên tiến, mà hầu hết chúng ta mô tả là “những cỗ máy có thể học hỏi”, thực sự không thể “học” trừ khi người ta nói với nó những gì nó cần biết. Nếu bạn muốn ngăn robot của mình tự hủy hoại bản thân, bạn thường phải dự đoán những loại tình huống chúng sẽ gặp phải và sau đó dạy cho chúng cách để vượt qua hoặc tránh những tình huống đó.

Vấn đề với phương pháp phát triển AI này là khá rõ ràng, có thể thấy trong trường hợp của phần mềm Tesla Autopilot, khi nó nhầm lẫn một chiếc xe tải lớn với một đám mây và đâm vào nó, giết chết người lái xe bên trong.

Để đưa lĩnh vực này phát triển hơn nữa và tạo ra loại robot mà con người đã mơ ước bấy lâu nay, các nhà nghiên cứu như Winfield đang cố gắng tái tạo khả năng bẩm sinh theory of mind của con người vào những mô hình mô phỏng lắp đặt bên trong robot.

Chúng ta có thể mất nhiều năm nữa để có thể sở hữu một robot hoạt động hoàn toàn tự động trong thế giới thực mà không cần đến một khu vực an toàn. Nhưng nếu Winfield và những nhà nghiên cứu thông minh khác phát triển được những cỗ máy thực sự có khả năng “học”, họ có thể tìm ra công thức bí mật đằng sau theory of mind, và khi đó con người cuối cùng cũng có thể có được robot quản gia, giúp việc hoặc tài xế, giống như trong ước mơ của chúng ta.

Theo ictnews.vn

Bạn có quan tâm tới

17 mục tiêu phát triển bền vững là gì, ra đời từ khi nào?

Tháng 9/2015, Chương trình Nghị sự 2030 với