Năng lượng sạch bền vững: Giải quyết nỗi lo thiếu điện ở tương lai

Vì có trên 3.200 km bờ biển, Việt Nam là một địa điểm thuận lợi cho việc phát triển năng lượng sạch từ điện gió. Nền văn minh và sự phát triển của xã hội phụ thuộc vào năng lượng. Năng lượng là điều cần thiết giúp con người để tồn tại và sản xuất công cụ cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất và dịch vụ.

Năng lượng cần thiết cho các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng và giao thông vận tải ngoài việc cung cấp năng lượng cho sinh hoạt và đun nấu trong gia đình. Năng lượng truyền thống, củi, gỗ, than, dầu mỏ và các nguồn khác được bao gồm trong cơ cấu năng lượng của chúng ta. Trong số các nhà máy điện mà chúng ta đã xây dựng, 80% là nhiệt điện.

Người tiêu dùng không chỉ lo lắng về chi phí điện tăng lên, mà họ còn lo lắng về sự ô nhiễm do công nghệ nhiệt điện gây ra. Ngành năng lượng cần tăng cường sử dụng năng lượng mới và năng lượng sạch.

lắp điện mặt trời

Người ta nói rằng năng lượng là “huyết mạch của nền kinh tế.” Do đó, để đảm bảo rằng năng lượng cần thiết để phát triển quốc gia một cách bền vững, mục tiêu cao nhất phải được đặt ra. Theo Bộ Công Thương, phát triển năng lượng tái tạo (NLTT) là một trong những ưu tiên chính của Việt Nam trong những năm tới. Trong tương lai, đây sẽ là “chìa khóa” để giải quyết vấn đề thiếu điện.

Nền kinh tế Việt Nam được dự đoán sẽ tang trưởng ở mức cao từ 6,5 đến 7,5 phần trăm mỗi năm cho đến năm 2030. Quy hoạch điện VII điều chỉnh dự đoán rằng vào năm 2030, tổng công suất lắp đặt nguồn điện cả nước sẽ giảm từ 53.236 MW hiện tại lên 130.000 MW. Do đó, trong mười năm tới, cơ sở hạ tầng phân phối và truyền tài điện mới, bao gồm 76.660 MW điện mới, phải được xây dựng và đưa vào vận hành.

Cần nhiều năng lượng. Theo báo cáo của Bộ Công Thương, ngành địn cần sản xuất trên 500 tyr kWh để đảm bảo cung cấp đủ điện, ổn định và a toàn cho phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2030. Tổng sản lượng và nhập khẩu điện của hệ thống điện quốc gia năm 2019 đạt 239,739 tỷ kilowatt-giờ, tăng 8,93% so với năm 2018. Con số dự kiến năm 2020 là 261,456kWh, tăng 9,1% so với năm 2019. Do đó, sức ép đầu tư vào nguồn phát điện sẽ rất lớn trong mười năm tới. Sản lượng điện cần bổ sung bình quân 26,5 tỷ kilowatt-giờ mỗi năm, theo báo cáo về tình hình thực hiện các dự án trong quy hoạch điện VII điều chỉnh từ Ban chỉ đạo quốc gia về phát triển điện lực giai đoạn 2021–2025. Tuy nhiên, do một số dự án nguồn điện lớn và các chuỗi dự án khí không hoàn thành theo kế hoạch, hệ thống sẽ bị thiếu điện trong cả giai đoạn 2021–2025. Trong số 62 dự án có công suất trên 200 MW, 15 dự án đã hoàn thành công việc, trong khi 47 dự án khác hoặc chậm tiến độ từ hai năm trở lên so với tiến độ nêu trong quy hoạch điện VII điều chỉnh.

Nghiên cứu do Viện Năng lượng (Bộ Công Thương) thực hiện đã dự đoán rằng nhu cầu năng lượng của Việt Nam sẽ tăng gấp 2,5 lần so với năm 2015. Năng lượng của Việt Nam đã thay đổi từ một quốc gia xuất khẩu sang một quốc gia nhập khẩu ròng. Sự thay đổi này sẽ có tác động đến việc bảo vệ nguồn cung năng lượng. Năm 2025 và năm 2035, tỷ trọng năng lượng nhập khẩu trên tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp sẽ tăng lên 37,5%. Có thể giảm sự phụ thuộc vào năng lượng bằng cách tăng cường sử dụng năng lượng và khai thác các nguồn NLTT có sẵn trong nước.

Cơ hội cho năng lượng sạch tái tạo

Theo một khảo sát của ngân hàng thế giới, với tổng công suất điện gió ước đạt 513.360MW, Việt Nam có tiềm năng sử dụng gió lớn nhất Đông Nam Á. Công suất này vượt xa 100 lần công suất của thuỷ điện Sơn La và hơn 10 lần tổng công suất dự kiến của ngành điện vào năm 2015. Do có trên 3.200 km bờ biển, Việt Nam là một địa điểm thuận lợi cho việc phát triển sức gió. Ngoài ra, thống kê của ngân hàng này cho thấy mật độ năng lượng gió của chúng ta lớn so với thế giới và thuộc loại trung bình. Với 8,6% diện tích đất đai, tương đương với khoảng 28.000 km2, tiềm năng gió được coi là tốt và rất tốt. Với tiềm năng phong phú đó, khai thác có thể cung cấp một nguồn năng lượng dồi dào để phát triển kinh tế ở các vùng cao, vùng xa và vùng hải đảo (bảng dưới).

Bảng: Tiềm năng năng lượng gió ở độ cao 65m của Việt Nam

Kém

<6m/s

Khá

6-7m/s

Tốt

7-8m/s

Rất tốt

8-9m/s

Tuyệt vời > 9m/s
Diện tích (km2) 197.342 100.361 25.679 2.187 113
Tiềm năng (MW) 401.444 102.716 8.748 452

Nhiều tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam về tiềm năng phát triển NLTT và năng lượng sạch. Theo báo cáo của tổ chức hợp tác phát triển (GIZ), kỹ thuật điện giá của Việt Nam bao gồm khoảng 215.000 MW điện mặt trời (ĐMT) và khoảng 340.000 MW điện mặt trời (ĐMT). Ngoài ra, do nền nông nghiệp lớn của quốc gia, Việt Nam có nguồn nguyên liệu phong phú để phát triển sản xuất năng lượng sinh học. Với những tiềm năng to lớn này, Việt Nam có đủ điều kiện để phát triển NLTT mạnh mẽ, góp phần giảm dần lượng năng lượng hóa thạch được sử dụng.

Tại hội nghị về a ninh năng lượng, ông Rahul Kitchlu, trưởng nhóm năng lượng, nói rằng Việt Nam cần bổ sung thêm nguồn NLTT. Cho thời gian tới, đây sẽ là lời giải pháp hợp lý nhất cho vấn đề cấp điện. Việt Nam có thể khai thác và sử dụng nguồn NLTT một cách hiệu quả và bền vững do khí hậu nhiệt đới gió mùa, đường bờ biển dài hơn 3.000 km và số giờ nắng ngày lớn.

Theo Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam (VEA), các nguồn nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ và khí đốt vẫn đáp ứng phần lớn nhu cầu năng lượng hiện tại. Nhưng nguồn nhiên liệu này đang hết, gây ra biến đổi khí hậu và ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Vì vậy, nhiều quốc gia trên thế giới đang tập trung vào việc nghiên cứu và sử dụng các nguồn NLTT như gió, mặt trời, địa nhiệt và năng lượng sinh khối. Việt Nam cũng không thể bỏ qua xu hướng này.

lắp điện mặt trời

Thật vậy, chiến lược phát triển NLTT của Việt Nam sẽ được thực hiện đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, chính phủ khuyến khích và huy động mọi nguồn lực xã hội đầu tư vào việc phát triển các nguồn năng lượng thiên nhiên (NLTT), thúc đẩy sự phát triển và sử dụng các nguồn NLTT và làm tăng tỷ trọng NLTT trong hệ thống năng lượng của quốc gia. Ngoài ra, chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp để khuyến khích sản xuất điện mặt trời và điện gió, bao gồm mức giá hấp dẫn cho điện mặt trời lên tới 9,35 cent/kWh và khoảng 8,5 cent/kWh cho điện gió. Do đó, hàng trăm dự án NLTT đang “xếp hàng” để được thực hiện. Ngoài ra, chỉ trong sáu tháng đầu năm 2019, có tới 89 nhà máy điện gió và ĐMT được lắp đặt, tạo ra tổng công suất 4.543,8MW, chiếm 8,3% công suất lắp đặt hệ thống điện của quốc gia. Quy hoạch điện VH điều chỉnh dự đoán chỉ 850MW công suất ĐMT vào vận hành vào năm 2020, nhưng con số này vượt xa rất nhiều.

Tại “Hội nghị cấp cao lần thứ 3” và “Diễn đàn các bên liên quan lần thứ nhất” do Nhóm Đối tác năng lượng Việt Nam (VEPG) phối hợp với Bộ Công Thương tổ chức cuối năm 2019 tại Hà Nội, ông Pier Giorgio Aliberti, Trưởng phái đoàn Liên minh Châu Âu (EU) tại Việt Nam Đây là cơ hội để chúng ta cùng nhau xem xét và đánh giá lại việc phát triển theo hướng bền vững hơn, chuyển sang sử dụng năng lượng sạch hơn thay vì năng lượng ô nhiễm. Với sự hỗ trợ mạnh mẽ của những đối tác phát triển và cam kết đầy tham vọng của chính phủ. Ông Pier Giogio Aliberti tuyên bố rằng Liên minh Châu Âu tiếp tục cam kết hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ năng lượng nâu sang năng lượng xanh, đồng thời bảo đảm khả năng tiếp cận năng lượng với giá phải chăng cho tất cả mọi người và bảo vệ khả năng cạnh

Tuy nhiên, việc phát triển năng lượng gió ở nước ta còn gặp nhiều khó khăn đó là:

– Nước ta chưa có đầy đủ hệ thống chính sách về phát triển năng lượng mới và tái tạo. Trong khi ở Trung Quốc đã có Luật phát triển năng lượng tái tạo. Thái Lan đã chuyển sang bước đầu tư thứ 2 quyết liệt hơn, kể cả việc phụ thu 4 cent/lít xăng nhập khẩu để làm quỹ hỗ trợ phát triển nhiên liệu sạch.

– Việc đầu tư đánh giá tiềm năng nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo còn manh mún, chưa đồng bộ. Do đó, việc nghiên cứu và ứng dụng còn ít và tản mạn.

– Những dạng năng lượng sản xuất từ gió, nước, sinh khối thực vật và ánh sáng Mặt Trời rất sẵn nhưng kinh phí đầu tư để khai thác và sử dụng những nguyên liệu thô này hiện tại rất cao. Do đó, Chính phủ cần có biện pháp hỗ trợ để phát triển các dạng năng lượng này.

Kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển với tốc độ cao, vì vậy, cung cấp năng lượng ổn định là ưu tiên hàng đầu. Nhu cầu năng lượng, đặc biệt là nhu cầu điện cho sản xuất và sinh hoạt là đòi hỏi cấp bách cho phát triển kinh tế – xã hội.

Không đi không bao giờ đến. Tiềm năng mãi mãi vẫn là tiềm năng nếu không có chính sách, không năng động thì tiềm năng vẫn không thể phát huy được. Đề nghị phải có chính sách mạnh mẽ.

Bộ Kế hoạch- đầu tư và Bộ Khoa học – Công nghệ phải tư vấn cho Nhà nước có chính sách và đầu tư mạnh mẽ, giao nhiệm vụ cho các cơ quan khoa học và các trường, các Viện và các Hội khoa học triển khai.

Nhiều điểm nghẽn cần tháo gỡ

Việt Nam có tiềm năng và lợi thế để thực hiện các dự án NLTT; tuy nhiên, các vấn đề và vướng mắc liên quan đến cơ chế, chính sách và kỹ thuật đang khiến các dự án chưa đáp ứng được yêu cầu. Ví dụ, trong thời gian qua, sự “bùng nổ” của các dự án NLTT đã dẫn đến hệ thống truyền tải không theo kịp, dẫn đến quá tải và buộc nhiều nhà máy phải giảm công suất tới 60%, gây thất thoát và lãng phí.

Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, có một lượng đầu tư lớn sẽ được thực hiện trong những năm tới vào lưới điện truyền tải. Tổng vốn đầu tư vào lưới điện truyền tải sẽ rất lớn trong những năm tới, cụ thể là trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020. Đầu tư vào lưới điện là 214.000 tỷ đồng trong năm 2016–2020 và 610.000 tỷ đồng trong năm 2021–2030. Có vẻ như EVN gặp khó khăn khi đáp ứng các yêu cầu tài chính với số vốn đầu tư này. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là các quy định của pháp luật cho phép Nhà nước sở hữu quyền truyền tải điện và thiếu những điều kiện cụ thể để đảm bảo rằng nguồn lực xã hội sẽ được đầu tư vào hệ thống truyền tải điện.

Ông Nguyễn Anh Tuấn, nguyên Phó Viện trưởng Viện Năng lượng, nhấn mạnh rằng các “điểm nghẽn” về truyền tải xảy ra do sự mất đồng bộ giữa việc phát triển nguồn ĐMT và điện gió. Sự “bùng nổ” của các dự án ĐMT trong khi hệ thống truyền tải không đáp ứng đã buộc nhiều nhà máy phải giảm lượng phát điện của họ từ mười đến một trăm phần trăm. Vì không có cơ chế hỗ trợ cụ thể khi lập và truyền duyệt Quy hoạch điện VII vào cuối năm 2015 và đầu năm 2016, nên rất ít các dự án NLTT được đề xuất. Ngoài ra, tính toán về quy mô nguồn điện NLTT trên 27.000MW vào năm 2030 chỉ là một ước tính định hướng. Do đó, xây dựng các đường dây và trạm biến áp truyền tải cụ thể không thể diễn ra hàng năm. Dự án NLTT cũng gặp khó khăn và chưa phát triển đúng với tiềm năng vì còn nhiều “khoảng trống” và bất cập chính sách chưa được khắc phục.

Các chuyên gia cho rằng lưới truyền tải phải được xã hội hóa để giải quyết các vấn đề. Theo ông Trần Viết Ngãi, nếu có những chính sách tháo gỡ kịp thời, các nhà máy điện NLTT sẽ bổ sung thêm nguồn điện, giảm áp lực thiếu điện ngay lập tức và bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Do đó, đấu thầu cho dự án điện cũng phải được tính đến.

Theo Phó Cục trưởng Cục Điện lực và NLTT (Bộ Công Thương) Đỗ Đức Quân, có hai cách tiến hành đấu thầu: theo trạm biến áp hoặc mời nhà đầu tư tham gia một phần hoặc toàn bộ dự án sau khi đã có mặt bằng sạch. Với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, Bộ Công Thương hiện đang tìm cách đẩy nhanh việc đấu thầu các dự án ĐMT ở Việt Nam. Một số vấn đề cần được xem xét bao gồm: Địa điểm đấu thầu là gì? Đó là nơi nào? Quy mô của nó là gì? Ngoài ra, rà soát các vấn đề pháp lý liên quan? Người đứng ra đấu thầu là ai? Do đó, đảm bảo tính minh bạch và công khai, đồng thời lựa chọn các dự án có chi phí hợp lý. Ông Đỗ Đức Quân thông tin thêm rằng “EVN cũng đang chuẩn bị cho việc đấu giá thí điểm một số dự án ĐMT để đến năm 2021, việc đấu thầu dự án ĐMT có thể triển khai rộng rãi”.

Theo kết quả của nghiên cứu được thực hiện bởi Viện Khoa học Thuỷ văn và Môi trường thể hiện:

– Các khu vực có năng lượng gió năm W trên 1.000kWh/m2.Nơi có tiềm năng năng lượng gió lớn, với tốc độ gió trung bình từ 4m/s trở lên, việc khai thác và sử dụng máy phát có công suất lớn là rất tốt.

– Các khu vực có năng lượng gió năm W thấp hơn 600kWh/m2.tương ứng với tốc độ gió trung bình năm nhỏ hơn 3,5m/s là tiềm năng yếu và chỉ nên được sử dụng cho máy phát có công suất nhỏ.

Số giờ nắng trong năm của chúng ta cho thấy tiềm năng năng lượng mặt trời của chúng ta, trung bình từ 1.400 đến 3.000 giờ, chủ yếu thuộc vùng đồng bằng duyên hải cực Nam Trung Bộ và một phần của phía Đông Nam Bộ, chủ yếu là sườn phía Đông Hoàng Liên Sơn và phần lớn Do đó, Việt Nam hoàn toàn có thể khai thác năng lượng mặt trời. Mặc dù giờ năng trong năm của Việt Nam ít hơn ở các quốc gia Tây Âu, nhưng việc sử dụng pin Mặt Trời vẫn rất phổ biến.

Để đối phó với những vấn đề mới về nguồn năng lượng và môi trường, con người phải tận dụng tất cả các nguồn năng lượng sạch có thể để thay thế nhiên liệu khoáng chất có hàm lượng cacbon cao. Toàn cầu, các quốc gia công nghiệp tiên tiến và một số nước phát triển đã ưu tiên phát triển và tái sinh năng lượng mới và tái sinh thông qua thuế, pháp luật, quy hoạch và ứng dụng. Năm 1992, chính phủ Hoa Kỳ đưa ra tuyên bố ủng hộ sự phát triển của pin quang điện. Họ dự đoán rằng sản lượng của loại pin này sẽ đạt 1.400 triệu lượng, tương đương với 100 lần sử dụng toàn cầu hiện tại. Chính phủ Đan Mạch hỗ trợ các gia đình lắp đặt máy phát điện bằng sức gió toàn bộ chi phí. Chính phủ Nhật Bản bắt đầu thực hiện “Kế hoạch ánh sáng Mặt trời mới” vào năm 1993.

Trung Quốc đã đề ra cương yếu “Phát triển nguồn năng lượng mới và năng lượng tái sinh từ năm 1996 đến năm 2010” để đảm bảo lấy nhiên liệu hoá thạch làm kết cấu nguồn năng lượng chính, nhằm bình ổn sự quá độ sang việc lợi dụng một cách hữu hiệu than sạch phong phú về trữ lượng, cũng như năng lượng điện hạt nhân và tái sinh trong tương lai.

Tôi xin mượn lời Thượng nghị sĩ Al Gore đã đặc trưng hoá tinh thần này khá thành công trong cuốn “Trái Đất trên bàn chân” để kết luận vấn đề này:

“Tôi đã tin tưởng rằng chúng ta phải có hành động dũng cảm và rõ ràng. Chúng ta cần phải làm cho việc cứu vớt môi trường trở thành nguyên tắc tổ chức trung tâm cho nền văn minh nhân loại. Dù có nhận ra được điều đó hay không thì giờ đây chúng ta đã tham gia vào một cuộc chiến quyết liệt nhằm đem lại sự cân bằng cho Trái Đất của chúng ta, và cục diện của trận chiến chỉ thay đổi khi mọi người trên thế giới này thức tỉnh đầy đủ bởi một cảm giác chung về mối nguy cơ cấp bách để cùng nỗ lực toàn diện. Chúng ta không được phép đợi cho đến khi quá muộn. Chúng ta càng lo lắng nếu như số dân của thế giới này tiếp tục tăng như đã tăng trước đây. Hàng tỷ con người mới sinh ra và nghèo nàn sẽ tràn vào sân khấu thế giới. Đây lại là một phần to lớn nữa của hệ thống mà chúng ta buộc phải hiểu ra”.

Bạn có quan tâm tới

17 mục tiêu phát triển bền vững là gì, ra đời từ khi nào?

Tháng 9/2015, Chương trình Nghị sự 2030 với